Phát triển các sản phẩm phần cứng, phần mềm sử dụng cô
ng nghệ mở, đó là cách Việt Nam thể hiện thiện chí của mình để tạo ra niềm tin số về các sản phẩm Make in Vietnam.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai thử nghiệm thương mại hóa cô
ng nghệ 5G. Thành quả này có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ các kỹ sư phần mềm bởi mạng 5G Việt Nam sẽ dùng chu?
??n m???.
Phát triển các hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia bằng cô
ng nghệ mở chính là định hướng của Việt Nam. Đây là mấu chốt để tạo ra niềm tin số Việt Nam.
Với thiết b?
? mạng và thiết bị đầu cuối 5G Make in VietNam, Việt Nam đã làm chủ được những thành phần cơ bản nhất của một hệ sinh thái 5G. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh 5G sắp sửa được thương mại hóa vào cuối năm nay.
Việt Nam đứng thứ 20 thế giới về ứng dụng phần mềm ng
uồn mở
Theo Báo cáo Phân tích rủi ro và An ninh ng
uồn mở năm 2020 (Open Source Secutiy and Risk Analysis Report 2020) của Sysnopsys, khi kiểm toán 1.250 kho mã ng
uồn (codebases ) phần mềm đóng thuộc 17 ngành cô
ng nghiệp, có tới 99% codebases chứa thành phần ng
uồn mở. Trong đó, 9/17 ngành cô
ng nghiệp có 100% kho mã ng
uồn chứa thành phần ng
uồn mở.
Đáng chú ý khi có tới 70% lượng mã ng
uồn trong các codebases là ng
uồn mở. Con số này đã tăng lên gấp đôi so với tỷ lệ 36% của năm 2015. Ngoài ra, 90% các kho mã ng
uồn mới ra đời từ năm 2019 có chứa thành phần ng
uồn mở.
Cô
ng nghệ mở đang được sử dụng rất phổ biến trong nhiều ngành cô
ng nghiệp.
Theo Sysnopsys, trung bình mỗi codebases có 445 thành phần ng
uồn mở. Hơn 90% công ty cô
ng nghệ thông tin sử dụng phần mềm ng
uồn mở cho các ứng dụng quan trọng.
Báo cáo của diễn đàn mã ng
uồn mở GitHub cho thấy, Việt Nam hiện đứng thứ 20 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ ngoài nước Mỹ về ứng dụng mã ng
uồn mở. Tại khu v?
?c Đ??ng Nam Á, Việt Nam xếp ở vị trí thứ 3 về ứng dụng phần mềm mã ng
uồn mở, sau Singapore và Indonesia.
Mặc dù vậy, khi xét về tỷ lệ, chúng ta thua kém khá nhiều so với Trung Quốc, Ấn Độ, Đức, Anh, Nhật Bản và chỉ ngang ngửa với Đài Loan, Singapore và Indonesia. Bên cạnh đó, tỷ lệ tăng trưởng các dự án ng
uồn mở và những ng
uồn đóng góp cho các mã ng
uồn mở của Việt Nam vẫn còn thấp.
Số liệu năm 2020 của GitHub
Dù tiếp cận xu hướng mở khá sớm, từ những năm 2000, tuy nhiên tốc độ phát triển cô
ng nghệ mở của nước ta vẫn đi theo sau một số nước. Điều này là bởi những hạn chế về văn hóa đóng, tình trạng cát cứ dữ liệu và sự thiếu quan tâm của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn vào mảng cô
ng nghệ này.
Bên cạnh đó, nguyên nhân sâu xa hơn là bởi Việt Nam không có truyền thống phát triển cô
ng nghệ. Điều này là do nền kinh tế Việt Nam vẫn mới chỉ ở mức trung bình khá, trình độ dân trí và khoa học cô
ng nghệ còn thấp, bằng chứng là chúng ta có rất ít các phát minh, bằng sáng chế về khoa học, cô
ng nghệ.
Để Việt Nam có thể theo kịp thế giới và trở thành quốc gia mạnh về cô
ng nghệ thông tin, ứng dụng cô
ng nghệ mở là con đường duy nhất để Việt Nam có thể làm chủ về mặt cô
ng nghệ.
Từng bước làm chủ cô
ng nghệ mở, kiến tạo niềm tin số Việt Nam
Lựa chọn phát triển cô
ng nghệ mở, phần mềm ng
uồn mở và mở dữ liệu để các cá nhân, doanh nghiệp tham gia sáng tạo giá trị mới là định hướng của Việt Nam.
Đây là khẳng định của người đứng đầu Bộ Thông tin & Truyền thông tại Diễn đàn Cô
ng nghệ mở Việt Nam (Vietnam Open Summit 2020). Việc tổ chức sự kiện này cũng là cam kết, chiến lược và chương trình hành động của Việt Nam về phát triển và làm chủ cô
ng nghệ số dựa trên chu?
??n m???.
Định hướng phát triển cô
ng nghệ mở Việt Nam thời gian tới sẽ tập trung vào 3 trụ cột chính là hệ sinh thái mở “Make in Vietnam”, thúc đẩy văn hoá mở và phát triển cộng đồng mở.
Ứng dụng Bluezone - sản phẩm mã ng
uồn mở Make in Vietnam đã có hơn 20 triệu người sử dụng. Ảnh:Trọng Đạt
Thực tế cho thấy, thời gian qua, Việt Nam đã phát triển và đầu tư rất nhiều cho các cô
ng nghệ mở, sự ra đời của các ứng dụng như Bluezone, CoMeet là minh chứng rõ nét nhất cho điều đó.
Nhờ phát triển dựa trên mã ng
uồn mở, người dùng cùng hơn 100 chuyên gia CNTT đã đóng góp vào sự phát triển của ứng dụng Bluezone. Cũng nhờ có mã ng
uồn mở, ứng dụng truy vết người nghi nhiễm Covid-19 của Việt Nam đã được người dân tin dùng với hơn 22 triệu lượt tải.
Hiện nay, Viettel, Bkav, CMC là những tập đoàn cô
ng nghệ đi đầu tại Việt Nam về việc phát triển các cô
ng nghệ mở.
Theo ông Nguyễn Tử Quảng - CEO Bkav, từ cách đây vài năm, Bkav đã bắt đầu tư vào lĩnh vực camera AI. Đến năm 2018, công ty này lại thành lập thêm Viện cô
ng nghệ AI bởi nhận thấy tiềm năng ứng dụng AI là rất lớn.
Những chiếc camera AI sử dụng nền tảng mở Open AI View của Bkav đã được xuất sang thị trường Mỹ.
Tháng 11 vừa qua, Bkav đã xuất khẩu lô hàng camera AI đầu tiên sang Mỹ để lắp đặt tại trụ sở chính của tập đoàn Qualcomm (Sandiego, California). Tại Qualcomm, những chiếc camera Việt Nam sẽ là một thành phần quan trọng trong chiến lược triển khai thành phố thông minh của tập đoàn này.
Điều đáng nói là những chiếc camera mang thương hiệu AI View do Bkav sản xuất đều được phát triển dựa trên nền tảng mảng Open AI View. Việc sử dụng nền tảng mở chính là cách mà tập đoàn đến từ Việt Nam lấy được niềm tin của các bạn bè quốc tế.
Điều này diễn ra trong bối cảnh các sản phẩm camera an ninh của Trung Quốc đang bị cấm tại Mỹ và nhiều nước Châu Âu do những quan ngại về vấn đề an ninh, bảo mật.
Với CMC, tập đoàn này lựa chọn nền tảng mở OpenStack để xây dựng CMC Open Cloud và Elastic Stack để xây dựng SOC. Đây đều là các mã ng
uồn mở được công khai trên GitHub.
Do sử dụng mã ng
uồn mở từ GitHub, nhiều mã ng
uồn module Big data, Cloud của CMC cũng sẽ được chuyển lại cho diễn đàn này để sinh viên, lập trình viên sử dụng. Bên cạnh đó, CMC cũng phát triển hệ sinh thái mở C.OPE2N để chia sẻ và đón nhận những đóng góp từ cộng đồng.
Lễ ra mắt nền tảng mở dành cho doanh nghiệp C.OPE2N của tập đoàn CMC. Ảnh: Trọng Đạt
Ông Lương Tuấn Thành - Giám đốc Cô
ng nghệ tập đoàn CMC cho rằng, với việc phát triển dựa trên mã ng
uồn mở, toàn bộ chi phí liên quan tới bản quyền phần mềm trước đây sẽ được chuyển sang đầu tư cho con người. Đây là cách CMC phát triển đội ngũ chuyên gia và xây dựng văn hóa mở.
Còn ở trường hợp của Viettel, nhà mạng này chọn việc làm chủ cô
ng nghệ 5G dựa trên mạng truy nhập vô tuyến mở (OpenRAN). Đây là sự lựa chọn táo bạo so với việc sử dụng mạng truy nhập vô tuyến (Radio Access Network - RAN) truyền thống.
Nhà mạng Viettel cũng lựa chọn sử dụng mạng truy nhập vô tuyến mở (OpenRAN) để phát triển các thiết bị 5G Make in Vietnam. Ảnh: Trọng Đạt
Nhờ phát triển các thiết bị dựa trên mạng truy nhập vô tuyến mở, Viettel sẽ không còn phải phụ thuộc vào các nhà cung cấp thiết bị nước ngoài. OpenRAN với phương thức vận hành mở cũng sẽ giúp nhà mạng này giảm bớt chi phí và linh hoạt hơn trong quá trình triển khai.
Quan trọng hơn, cô
ng nghệ mở sẽ tạo ra niềm tin số để Viettel có thể bán được các sản phẩm thiết b?
? mạng Make in Vietnam. Các quốc gia chỉ có thể có niềm tin này khi cô
ng nghệ được sử dụng là cô
ng nghệ mở. Nhờ vậy, tất cả các quốc gia đều có thể làm chủ cô
ng nghệ mà mình sử dụng.
Tới đây, sẽ còn nhiều hơn nữa các sản phẩm cô
ng nghệ khác của Việt Nam được phát triển dựa trên nền tảng cô
ng nghệ mở. Đây là lời khẳng định của Việt Nam về quyết tâm trở thành quốc gia cô
ng nghệ bằng nền tảng mở.
Qua các sản phẩm cô
ng nghệ mở, Việt Nam cũng muốn gửi tới thế giới thông điệp niềm tin về các sản phẩm cô
ng nghệ số Make in Vietnam.
Bài 1: Cô
ng nghệ mở tạo ra niềm tin số
Trọng Đạt
Cô
ng nghệ mở tạo ra niềm tin số
Nhờ có cô
ng nghệ mở, Việt Nam đang song hành cùng các nước dẫn đầu thế giới về phát triển mạng di động 5G. Với cô
ng nghệ mở, Việt Nam sẽ sớm hiện thực hóa tham vọng trở thành một quốc gia phát triển về cô
ng nghệ.
Nguồn bài viết : XSMN